3. Câu 3 trang 142 SGK Văn 11. A. Khái quát: Nam Cao có sáng tác từ năm 1936. Như vậy trước khi Chí

Câu 3. Viết về người trí thức nghèo và người nông dân cùng khổ, Nam Cao thường trăn trở,day dứt về vấn đề gì?

A. Khái quát:

Nam Cao có sáng tác từ năm 1936. Như vậy trước khi Chí Phèo ra đời, nhà văn đã có 5 năm cầm bút. Trong chặng sáng tác đầu có tính chất thí nghiệm này, Nam Cao chịu ảnh hướng của văn học lãng mạn thoát li và đã cho in hàng chục truyện ngắn, một số thơ và một vở kịch ngắn, với nhiều bút danh nhưng nhìn chung không mấy thành công.  Nhà văn chỉ thực sự khẳng định được tài năng của mình khi truyện ngắn Chí Phèo mang tầm vóc một kiệt tác ra đời, với bút danh Nam Cao (là tên ghép của hai chữ đầu tên huyện (Nam Sang) và tổng (Cao Đà) mà thành).

Trước Cách mạng, Nam Cao đã có hơn 60 tác phẩm được in ra. Ngoài ra ông còn một số bản thảo truyện vừa đã bị nhà xuất bản làm thất lạc như: Cái bát, Cái miếu. Ngày lụt,. . . Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai mảng đề tài chính: Người trí thức nghèo và người nông dân nghèo.

B. Chi tiết

a. Ở mảng để tài người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao thường "lấy mình ra làm cái máy kiểm nghiệm" (Nguyễn Minh Châu). Ông lấy bản thân và những bạn bè của mình làm những nguyên mẫu trong hàng loạt các truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhân vật chính trong các sáng tác này đều có dạng như là: Những nhà văn nghèo, những viên chức, những anh giáo khổ trường tư,. . . Họ mang nhiều hoài bão cao đẹp, khát khao được phát triển nhân cách, được đóng góp cho xã hội, được khẳng định trước cuộc đời. Nhưng họ đã bị xã hội bất công và cuộc sống nghèo đói "ghì sát đất". Những hoài bão và ước mơ cao đẹp của họ bị vùi lấp một cách phũ phàng.

Ở mảng đề tài này, đóng góp nổi bật trước hết của Nam Cao là đã phán ánh một cách chân thực thực trạng buồn thảm, cơ cực của những người trí thức tiểu tư sán nghèo, đồng thời phần nào nhà văn cũng phác hoạ được bức tranh đen tối, u ám của xã hội Việt Nam đang đứng trước bờ vực thẳm của sự khủng hoảng trước Cách mạng.

Song giá trị thực sự không chỉ có thế. Điều quan trọng hơn và giá trị hơn là thông qua những bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao kết tội xã hội vô nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào tình trạng chết mòn, tàn phá tâm hồn con người. Đồng thời nhà văn thể hiện cuộc đấu tranh kiên trì của những người này trước sự cám dỗ của lối sống ích kí, sự đầu độc của môi trường dung tục, từ đó ca ngợi lẽ sống nhân đạo và tình thương yêu.

b. Ở mảng đề tài người nông dân, Nam Cao cũng thường lấy nguyên mẫu từ những người quen biết, thân thuộc trong cái làng Đại Hoàng lam lũ của ông để xây dựng nên những dì Hảo, lão Hạc, lang Rận, Chí Phèo,. . .

Qua những sáng tác ở mảng đề tài này, Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống tối tăm, cực nhục của người nông dân sau lũy tre. Nhà văn thường quan tâm đến số phận khốn khổ của những người nông dân thấp cổ, bé họng, thường xuyên bị đè nén, áp bức nặng nề nhất. Đấy là những người cố cùng, lép vế, những người phụ nữ bất hạnh lấy phải chồng vũ phu,. . . Thông qua những số phận của họ, ông nêu lên tình trạng vô cùng bất công ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Đó là, dường như người nông dân càng hiền lành bao nhiêu, càng nhẫn nhục bao nhiêu thì càng bị áp bức, đè nén nặng nề và trắng trợn bấy nhiêu.

Ngoài những nhân vật nói trên, Nam Cao thường viết về những người chí vì đói quá nên đã bị lăng nhục, bị xúc phạm một cách tàn nhẫn, bất công (Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận ,. . . ). Đấy là những người cằn cỗi, u mê, thậm chí dị hình dị dạng, đầy thú tính, có khi gây nên những chuyện nhục nhã, xấu xa. Viết về quá trình tha hoá của những con người này, nhà văn đã có những phát hiện sâu sắc: Xã hội tàn bạo đã huỷ diệt cả thể xác lẫn tâm hồn của những người nông dân lương thiện, đẩy họ vào cuộc sống không lối thoát. Đồng thời, nhà văn cũng khắng định nhân cách và bản chất lương thiện của những con người này ngay cả khi họ dã bị xã hội độc ác cướp mất cả hình hài và tính cách con người.

Ngoài ra, với tư cách là một cây bút hiện thực nghiêm ngặt, Nam Cao cũng không ngần ngại chỉ ra những thói hư, tật xấu của người nông dân, phần do môi trường nghèo đói, phần do chính những con người này gây ra ( Đòn chồng, Trẻ con không dược ăn thịt chó ,. . . ). Tất cả những điều đó chứng tỏ chiều sâu hiện thực và nhân đạo trong ngòi bút của Nam Cao.

Có thể nói, dù viết về đề tài người nông dân hay người trí thức, vượt lên trên ý nghĩa cụ thể của đề tài, sáng tác của Nam Cao thường chứa đựng những nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quái những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,. . . Nam Cao luôn trăn trở, day dứt về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo dã đầy đoạ con người vào trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ; đồng thời cũng đau đớn vô hạn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí huỷ diệt mất nhân tính.