3. Bức tranh đời sống trong hai câu thơ cuối: a. Nếu như trong hai câu thơ đầu, cảnh vật mang nhiều

Câu 3. Bức tranh đời sống được cảm nhận trong hai sau như thế nào?

a. Nếu như trong hai thơ đầu, cảnh vật mang nhiều tính ước lệ cổ điển thì hình ảnh ở trong hai câu thơ cuối lại được gợi tả một cách cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực. Và chính nét vẽ đời thường này dã làm cho thơ thêm dáng vẻ hiện đại, hơn thế, trong sự đối sánh với hình ảnh cánh chim và chòm mây ở trên, hình anh cô gái xay ngô, hình ảnh con người nổi bật lên như là trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Bức tranh trong hai câu cuối vẽ cảnh người thiếu nữ xóm núi trong lao động. Trong hoàn cảnh đầy tâm trạng, Bác đã quên đi cảnh ngộ đau khổ của mình đế cam nhận cuộc sống của nhân dân. thơ cho thấy sự quan tâm và tình yêu thương của Bác với những người lao động nghèo. Câu thơ thứ ba nguyên nghĩa là "Cô gái xóm núi xay ngô" - đó là một câu miêu tả chân thật, giản dị đời sống, nhịp sống hằng ngày. Đến đây, thơ từ bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức tranh đời sống, từ cảnh trời mây chim muông chuyển sang cảnh con người và lại là con người lao động - đấy là xu hướng vận động trong cấu trúc của bài thơ. Hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vé trẻ trung, khoẻ mạnh, sống động và chính cuộc sống lao động binh dị đó càng trở nên đáng quý, đáng tôn trọng biết bao giữa núi rừng chiều tối âm u, heo hút — nó đưa lại cho người đi đường lúc chiều hôm chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui hạnh phúc và hạnh phúc trong lao động của con người.

b. Hai câu cuối tạo nên một nhịp điệu đều và khoẻ khoắn, đó là do sự vắt dòng giữa cụm từ "ma bao túc" ở câu 3 với "bao túc ma hoàn" ở câu 4.

Sự nối âm liên hoàn, nhịp nhàng như diễn tả cái vòng quay không dứt cua động tác xay ngô - qua đó có thể thấy cô gái thật chăm chỉ, cần mẫn với công việc của mình.

Đáng chú ý hơn, đến câu thơ này, không gian mở ban đầu ngày càng được thư nhỏ lại: từ cảnh trời mây bao la đến cảnh cô gái xay ngô và cuối cùng là cảnh bếp lửa hồng. Đổng thời câu thơ cũrm xác định rõ hơn sự vận động của thời gian: "Nguyên văn không có chữ tối mà tự nhiên nói đến: thời gian trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay của cối ngô, quay quay mãi "ma bao túc. . . bao túc ma hoàn. . . " và đến khi cối xay dừng thì "lô dĩ hồng", lò đã rực hồng, tức trời tối, trời tối thì lò rực lên" (Theo Lê Trí Viễn). Như vậy, bếp lửa của cô gái xay ngô đã hồng lên, nghĩa là buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, nhưng không phải là đêm tối lạnh lẽo, âm u (theo quy luật cảm nhận của người xưa: ấm trong lạnh tối) mà là đêm tối ấm áp, bừng sáng bởi ngọn lửa hồng. Nếu ta hình dung bài thơ là một bức tranh thì chính cái chấm lửa dỏ mà người nghệ sĩ tài hoa chấm lên đó đã mang lại cái thần sắc cho toàn cảnh và dường như nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người đang cất bước đường xa kia.

Hình ảnh cô gái và bếp lửa tượng trưng cho cảnh gia đình, ngô hạt xay xong, bếp lửa đỏ hổng lại tượng trưng cho công việc, sự nghỉ ngơi và sum họp - thấp thoáng trong những hình ảnh ấy như có một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người đang lưu lạc xa nhà, xa quê hương đất nước. Đấy là tâm hổn nhà cách mạng đã vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt để đồn tình cảm với niềm vui đời thường. thơ vận động từ ánh chiều âm u, tăm tối đến ánh lửa hồng, rực rỡ, ấm áp; từ nồi buồn đến niềm vui. Nó cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời và tình yêu thương nhân dân của một con người.